Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016

CHỨNG NHÂN


         "Các con là nhân chứng những sự việc ấy." (Lc 24,48)


ĐẠI LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống". Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
Suy niệm
Cô bé Marian West lên bốn tuổi thì bà mẹ gởi vào một nhà trẻ cạnh nhà để bà đi làm việc. Trưa nào bà cũng về, Marian rất sung sướng gặp lại mẹ, hai mẹ con ở với nhau khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ, rồi mẹ lại trao Marian cho cô giữ trẻ để đi làm việc.
Rồi một ngày, ban trưa mẹ của Marian không đến nhà trẻ cô buồn lắm vì phải chờ mãi đến tối mới gặp được mẹ. Cô bé không hiểu tại sao ? Cô tự nhủ có lẽ mẹ không thương mình nữa.
Nhiều năm sau, cô bé mới biết trưa nào mẹ cũng về nhưng chỉ ngồi ở cửa sổ để nhìn Marian chơi mà thôi. Bà mẹ cố lánh mặt để Marian được trưởng thành, cùng bạn bè học hành tốt hơn.
Câu chuyện giúp ta hiểu phần nào về ý nghĩa sâu xa của việc Chúa về trời.
*
Đoạn trích trình thuật cho chúng ta lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu với các Tông đồ và cũng là kết thúc của Phúc âm theo Thánh Luca cho ta thấy những lời nói và cử chỉ cuối cùng của Chúa Giêsu khi Người hiện diện hữu hình trên trần gian này. Đồng thời cũng bộc lộ tâm tình, niềm vui của các tông đồ khi Chúa về trời.
Tin Mừng Luca kết thúc với biến cố Thăng Thiên, chấm dứt giai đoạn sứ vụ của Chúa Giêsu. Giai đoạn tiếp theo là Hội Thánh tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các Tông đồ. Ngài ban bình an, củng cố đức tin của các Tông đồ bằng cách tỏ bày cho biết Ngài chính là Thầy của các ông, đã chết nhưng đã sống lại và bây giờ đang hiện diện thật sự trước mặt các ông. Ngài giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đức Kitô được ứng nghiệm nơi Ngài. Cuối cùng Ngài trao cho các ông sứ mạng đi rao giảng và làm chứng về Ngài.
Bài Tin Mừng của ngày đại lễ hôm nay trình bày tất cả các chủ đề đã được các tông đồ rao giảng, đó là việc trưng dẫn Kinh Thánh, rao giảng sự sám hối và tha tội, vai trò chứng nhân Chúa Kitô phục sinh.
Trong những lời nhắn nhủ cuối cùng trước khi lên trời, Chúa Giêsu nhắc lại lời Kinh Thánh đa ứng nghiệm nơi Người, cũng là để các tông đồ tin, suy niệm lời Kinh Thánh.
Đối với các Tông đồ, sau khi đã chứng kiến các sự việc về Chúa Giêsu và được mở trí, các ông hiểu thấy đáo hơn về các sự việc ấy. Chúa đã trao nhiệm vụ làm chứng về Chúa cho các ông trước mặt muôn dân. Sau khi Chúa Giêsu về trời thì Chúa Thánh Thần sẽ đến với các tông đồ để thánh hóa và nâng đỡ các ông trên mọi nẻo đường của sứ vụ vừa được trao phó.
Đức Giêsu đã giải thích cho các Tông đồ hiểu ý nghĩa của biến cố nhờ vào Kinh Thánh. Đức Giêsu phải chết… đó là chương trình cứu độ nhân loại trong thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Ngài sống lại để hoàn tất những điều Kinh Thánh đã báo trước. Sau đó, họ lãnh nhận sức mạnh là phải đi làm chứng, rao giảng sám hối để được tha tội, bắt đầu từ Giêrusalem. Được trao nhiệm vụ làm chứng nhưng chưa thể ra đi, các tông đồ còn phải ở lại trong thành để chờ đợi ơn Chúa Thánh Thần. Để có thể thực thi sứ mệnh, cần phải nhận Thánh Thần từ Ngài gởi đến.Vì chỉ với ơn Chúa Thánh Thần việc rao giảng, làm chứng mới mang lại hiệu quả.
Biến cố “lên trời” là kết thúc cách thể hiện của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể, tức là theo nhân tính của Người để hiện diện theo tư cách thiên tính. “Lên trời” ở đây phải được hiểu theo nghĩa thiêng liêng là bước vào cõi vinh quang của Thiên Chúa.
“Lên trời” biểu lộ vinh quang của Đấng phục sinh, hoàn tất lời tấn phong thiên sai từ khi chịu Phép Rửa, và bây giờ được đăng quang bên hữu Thiên Chúa (x.Tv 110, 1). Theo sách Công vụ Tông đồ, 40 ngày sau phục sinh, Đức Giêsu mới thăng thiên vào ngày phục sinh. Con số 40 có nghĩa biểu tượng. Chủ ý của Luca là các Tông đồ cần có thời gian để vững tin vào Đức Giêsu phục sinh nhờ vào những lần hiện ra. Sau cùng, Đức Giêsu thăng thiên có nghĩa là chấm dứt các lần hiện ra, và từ đây dưới tác động và sức mạnh của Thánh Thần, các Tông đồ đảm nhiệm lấy sứ mạng mà Đức Giêsu đã trao phó. Vì vậy, biến cố thăng thiêng nói lên vinh quang và uy quyền của Đấng phục sinh.
Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu được rước lên trời, các môn đệ “thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Tại sao Chúa về trời mà các Tông đồ và môn đệ lại vui mừng ? Thưa, vui mừng vì nhận ra Thầy của họ là Đấng Phục sinh thực sự chiến thắng tội lỗi và sự chết; Vui mừng vì nhận ra một tương lai là sẽ được ở bên Chúa; Vui mừng vì Thánh Thần sẽ đến với họ.
Để có được niềm vui tràn ngập khi Chúa về trời các Tông đồ cũng đã phải gẫm suy Lời Chúa để rồi với ơn Chúa soi sáng, các ngài nhận ra ý nghĩa thật của những gì đã xảy ra, nên các ngài đã hưởng niềm vui trọn vẹn.
Điều này nhắc chúng ta nhìn lại việc gẫm suy Lời Chúa của mình đã thực hiện như thế nào ? Cảm thấy vui hay chỉ là bổn phận ?
Chúa Giêsu truyền cho các Tông đồ đi rao giảng về sự thống hối để được tha tội, bắt đầu từ Giêrusalem với dân Do thái và sau đó với mọi dân. Ơn cứu độ của Chúa được ban cho mọi dân tộc. Sự thống hối là một hoán cải từ trong não trạng, tâm hồn đưa đến một thay đổi toàn diện cuộc sống. Đó là điều kiện để được tha thứ và lãnh nhận ơn cứu độ. Các Tông đồ phải là nhân chứng cho Chúa Giêsu từ khi Ngài chịu Phép Rửa cho đến khi chịu chết, nhất là sự sống lại của Ngài.
Đây là sứ mạng của toàn thể dân Chúa. Thánh Phaolô đã thốt lên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Qua các tông đồ, Chúa cũng trao cho mỗi Kitô hữu chúng ta sứ vụ làm chứng cho Chúa, làm chứng cho niềm tin mà chúng ta đang mang trong mình. Để thực thi sứ mạng ấy, mỗi Kitô hữu trước hết phải hoán cải nơi chính bản thân để có thể công bố lòng thương xót và ơn tha thứ của Chúa cho mọi người.Cuộc sống của chúng ta đã thực sự trở thành lời chứng cho sự phục sinh, sự hiện diện của Chúa giữa môi trường mà mình đang sống chưa ? Khi thành công việc vì, chúng ta thường nghĩ là do khả năng của chính mình hay do ơn Chúa Thánh Thần ?
Bài học áp dụng
Trước khi Ðức Giêsu Thăng Thiên, Ngài đã trao cho các môn đệ và mỗi người Kitô hữu chúng ta sứ mệnh truyền giáo. Ngài hứa sẽ luôn ở với chúng ta mãi mãi. Lời hứa của Chúa được thực hiện qua bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa và Thánh Thần của Ngài. Ðó là nguồn sức mạnh nuôi dưỡng đời sống đức tin và sứ vụ của chúng ta. Sống kết hợp với Ðức Giêsu và thực thi lời Ngài, là chúng ta đang rao giảng Ngài cho anh em.
Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cho Chúa mọi việc trong cuộc sống.
*
Lạy Chúa Giêsu, khi về trời, Chúa đã không có bỏ chúng con, nhưng Chúa hằng yêu thương nuôi dưỡng và ở lại với chúng con qua bí tích Thánh Thể. Chúa cũng luôn hướng dẫn dìu dắt chúng con qua Lời Chúa. Xin cho chúng con biết siêng năng đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể để nhờ đó, cuộc sống của chúng con luôn có Chúa đồng hành. Ðể cùng với Chúa, chúng con ra đi với anh em chúng con. Amen.
                                                                               (Thiên Ân - UBĐK Công Giáo Việt Nam)

Sinh hoạt ngoài trời - Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 50 tại Saigon



Trong Hội trường


Cha Trưởng Ban Truyền Thông Saigon nói lời tri ân






Chúa Nhật VII Phục Sinh: Lễ Chúa Thăng Thiên (Năm C) - Ngày Thế giới Truyền thông xã hội

Lời Chúa: 
Lc 24,46-53



46 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; 47 và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. 48 Các con là nhân chứng những sự việc ấy. 49 Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống".
50 Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. 51 Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. 52 Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. 53 Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.

Hãy đi rao giảng Tin Mừng

          

"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo." (Mc 16,15)

 Lạy Chúa Giêsu, Chúa trao cho các Tông đồ, và cho cả chúng con, sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Xin cho mỗi người chúng con thêm ý thức về trách nhiệm cao cả này, biết góp phần cộng tác vào sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, bằng cách tận dụng những khả năng Chúa ban để làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, rao truyền Tin Mừng không chỉ là truyền giáo cho những người chưa biết Chúa, nhưng còn là Phúc-Âm-hoá đời sống của chính chúng con. Đã biết Tin Mừng, nhưng chúng con chưa thể hiện trọn vẹn nếp sống Kitô hữu, xin cho mỗi người chúng con biết nỗ lực sống theo tinh thần Phúc Âm, để trở thành ánh sáng, nên như muối men, làm thăng tiến và thánh hoá các cộng đoàn và cả giáo xứ chúng con.


 Lạy Chúa Giêsu, cánh đồng truyền giáo quá mênh mông, công cuộc Phúc-Âm-hoá đòi hỏi những nỗ lực trường kỳ, Chúa biết khả năng giới hạn của con người, nên Chúa cùng hoạt động với Giáo Hội, giúp các tín hữu thực thi sứ mạng cao cả nhưng đầy khó khăn này.

Chúa muốn mọi người được cứu độ, và Chúa cần chúng con cộng tác, để nói về Chúa, để loan báo tin vui cứu độ, để đưa nhiều người đến với Chúa, gia nhập vào Hội Thánh Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được niềm vui khi được giúp Chúa qua các công tác tông đồ.

Chúa sai chúng con rao giảng Tin Mừng, nhưng thật ra chúng con chỉ là những người gieo người tưới, chính Chúa mới làm cho mọc lên, xin cho chúng con biết luôn cầu nguyện cho việc truyền giáo, đồng thời biết tích cực tham gia việc tông đồ, cộng tác với ơn Chúa và hăng say xây dựng, mở mang Nước Trời.

Xin Chúa cho chúng con luôn biết nhận ra sứ mạng cao cả mà Chúa ban cho là rao giảng Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết ý thức, biết phấn đấu, biết hy sinh, biết làm tất cả mọi việc để Lời Chúa được rao giảng, và cũng xin cho chúng con biết trở nên bé nhỏ để làm vinh danh Chúa hơn nơi anh chị em.

                                                                                    ( Nguồn: Gp Bà Rịa, Vĩnh Long)  

 

Giáo xứ Đồng Tiến - Q 10


Thứ Hai tuần V mùa Phục sinh - 25/04: Thánh Máccô, tác giả sách Phúc Âm
Lời Chúa: 
Mc 16,15-20
15 Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. 17 Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, 18 cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
19 Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2016

Như Thầy yêu thương




Điều răn "mới", tại sao?

Diễn từ của Chúa Giêsu tại Bữa ăn tối cuối cùng trong Tin Mừng Thánh Gioan đã làm các độc giả say mê song cũng khiến họ bối rối. Giống như những diễn từ khác trong Tin Mừng thứ tư, bản văn chứa đầy những ngắt đoạn khó hiểu, những câu chưa hết ý và những đoạn lặp lại. Trong số những giải thích về cấu trúc kỳ lạ này, Raymond Brown chấp nhận cách giải thích tương đối đơn giản là tác giả Tin Mừng đã biên tập đến 2 lần và rồi một ai đó trong cộng đoàn của Thánh Gioan đã sắp xếp lại1. Kết quả là hai dị bản được đặt cạnh nhau, khác nhau tí chút nhằm thích ứng với những tình huống khác nhau, cách sử dụng những đoạn văn kép này rất phổ biến trong Ngũ Kinh. Brown lưu ý rằng “những gì được nói trong Diễn từ cuối cùng ở chương 15,1-31 cũng được nói lại trong chương 16,4-33”2. Và Perkins thì cho rằng nội dung của bài diễn từ “dường như đã được phổ biến trong thời gian biên tập cuốn Tin Mừng (Gioan), và có lẽ trình bày những hoàn cảnh khác nhau trong lịch sử sau này của cộng đoàn Thánh Gioan”3.
Cụ thể, thật thú vị khi nhận ra trong bài diễn từ vào Bữa ăn tối cuối cùng, Chúa Giêsu huấn dụ các Tông đồ tại hai nơi chốn khác nhau rằng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương họ, và như vậy ngữ cảnh cũng khác nhau. Đoạn đầu tiên được tìm thấy trong Ga 13,33-36:
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.
Perkins nhận xét rằng “giới răn nằm lạc lõng ở vị trí này bởi vì tiếp theo đó là chủ đề cuộc ra đi của Chúa Giêsu4. Thế nhưng vị trí này được cố ý lựa chọn. Bối cảnh cuộc ra đi sắp đến của Chúa Giêsu dường như là lý do khiến Ngài ban giới răn này cho các Tông đồ. Hàm ý của giới răn không phải là tình yêu của họ dành cho nhau phải lớn lao bằng tình yêu của Chúa Giêsu dành cho họ, nhưng vì Chúa sẽ phải rời bỏ họ và tình cảnh mới này rất thích hợp để ban cho họ một điều răn mới là: như Ngài đã yêu thương họ khi còn ở với họ, nên từ nay họ phải thay thế Chúa Giêsu để yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Một trong những mục đích khi viết Tin Mừng Thánh Gioan dường như là nhằm giải quyết sự chia rẽ trầm trọng trong cộng đoàn Thánh Gioan (như ta thấy trong Thư thứ nhất của Thánh Gioan). Vì thế, tác giả Tin Mừng có lẽ đã đặt Chúa Giêsu ở đây để khuyên nhủ mọi môn đệ tương lai của Ngài phải làm trung gian cho tình yêu nối dài của Ngài với tha nhân sau khi Ngài đã ra đi, và như vậy gìn giữ được sự thống nhất mà Ngài hằng thiết tha cầu nguyện.
Đây là đoạn duy nhất trong Tin Mừng Thánh Gioan (Ga 13,33-36) mà trong đó Chúa Giêsu gọi điều Ngài ban cho các tông đồ là điều răn “mới”. Trong đoạn thứ hai, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ yêu thương nhau “như Thầy đã yêu các con” (Ga 15,12-17), nhưng không nói đây là điều răn “mới”. Ngữ cảnh của đoạn văn thứ hai không phải là cuộc ra đi sắp đến của Chúa Giêsu, nhưng là sự sống của Ngài được trao ban cho các môn đệ, và điều đó như một mẫu gương cho họ để hiến chính thân mình cho tha nhân trong tương lai (Ga 15,12-17): “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Tại sao gọi là điều răn “mới”?
Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích tại sao Chúa Giêsu ban điều răn “mới” cho các môn đệ. Cách giải thích đơn giản nhưng kém thuyết phục là Ngài chỉ thêm số mới vào Mười Điều Răn mà Thiên Chúa đã ban cho dân Israel qua ông Môisen. Một lý do khác hấp dẫn hơn nhưng cũng vẫn khó chấp nhận là khi khuyên nhủ các môn đệ phải yêu thương nhau, Ngài không làm gì khác hơn là lập lại “Đại Giới Răn” rằng họ phải yêu thương nhau như chính mình, điều mà Ngài đã trả lời cho câu hỏi về sự ưu tiên nào trong Mười Điều Răn. Tuy nhiên, điều răn mới không chỉ nói rằng các môn đệ của Chúa Giêsu phải yêu thương nhau nhưng họ phải yêu thương nhau “như Thầy yêu thương các con”. Đây là tính chất mới quan trọng cho huấn dụ luân lý của Chúa Giêsu. Dường như tiêu chuẩn và mẫu gương tối thượng của tình yêu thương Kitô giáo là tình yêu mà chính Chúa Giêsu bày tỏ và dành cho các môn đệ; và theo dòng lịch sử, điều này sẽ được khai triển thành những nền linh đạo lớn trong việc bắt chước và theo Đức Kitô. Vì thế, Perkins giải thích rằng “Điều răn này ‘mới’ ở chỗ nó không dựa trên luật điều yêu thương trong truyền thống Do Thái (vd. Lv 19,18; 1QS 1:9-115) nhưng là sự tự hiến mình của Đức Giêsu”6.
Tuy nhiên, Điều răn “mới” này đôi khi bị xem như quá hạn chế vì dường như chỉ khuyên các môn đệ yêu thương nhau chứ không yêu hết thảy mọi người lân cận, khác với Đại Giới Răn. Thế nhưng cần phải lưu ý rằng diễn từ Bữa ăn tối cuối cùng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan đôi lúc hướng nhìn về cuộc khổ nạn và cái chết sắp đến của Chúa Giêsu, và thỉnh thoảng cũng là hướng nhìn lại từ sau cuộc Phục Sinh cho đến khi Ngài hoàn tất sứ mạng, vì thế, như C.H. Dodd đã giải thích: “Đúng ra, người nói chính là Đức Kitô đã phục sinh và vinh hiển7. Nhờ vậy, chúng ta có thể hiểu được tại sao điều răn “yêu thương nhau” có tính hạn chế, như đã được nói ở trên là chỉ trong vòng các môn đệ với nhau, một điều rất tương phản với Đại Giới Răn khuyên phải yêu thương hết mọi người lân cận không loại trừ ai. Trong diễn từ này, dường như chính Đức Kitô Phục Sinh đang nói với cộng đoàn mà Thánh Gioan viết Tin Mừng cho họ, Ngài đang hướng dẫn họ phải giải quyết những vấn đề và hệ quả trong cộng đoàn mình như thế nào. Cũng như trong bất kỳ xã hội nào, luật lệ mà cứ lặp đi lặp lại để cấm một hành vi đặc biệt nào đó thì điều ấy cho thấy rằng hành vi đó phổ biến trong xã hội đó. Trong Tin Mừng và các thư của mình, Thánh Gioan (là tác giả hoặc là nguồn gốc) thường viết lặp lại nhu cầu phải yêu thương nhau và sự đoàn kết giữa các môn đệ của Chúa Giêsu, thì điều đó cho thấy rằng những nhân đức này thiếu sót trầm trọng trong Giáo Hội của Thánh Gioan, và diễn từ Bữa ăn tối cuối cùng chỉ là cái cớ để Chúa Phục Sinh sửa chữa tình trạng đáng buồn này.
Luật của Giao Ước mới
Cuối cùng, có một chú giải rất hấp dẫn liên kết điều răn “mới” với giao ước mới. Như Raymond Brown nhận xét, tác giả Tin Mừng cho thấy rằng “mình đang suy tư về Bữa tối cuối cùng bằng những hạn từ giao ước8. Như đã trình bày trước đây khi bàn về Mười Điều Răn, giao ước và các điều răn liên quan mật thiết với nhau: “Đức Chúa phán với ông Môisen: ‘Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Israel’… Và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Mười Điều Răn” (Xh 34,27-28; x. Đnl 4,13). Phía Israel trong giao ước với Thiên Chúa là phải trung thành tuân giữ các giới răn của Chúa, đổi lại, Thiên Chúa sẽ tiếp tục bảo vệ và thi ân cho dân Ngài cho đến khi họ đến và vào Đất Hứa. Tuy nhiên, như một kết quả cho sự phản bội giao ước liên tục của dân Israel ngay khi còn ở hoang mạc và cả khi đã tiến vào Đất Hứa, Thiên Chúa đã khiến cho dân Israel bị đô hộ và lưu đày, sau đó các ngôn sứ bắt đầu nói về một giao ước khác mà Thiên Chúa sẽ cam kết với dân trung thành được chọn lựa của Ngài:
Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,31-34).
Giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân tuyển chọn của Ngài, được ngôn sứ Giêrêmia tiên báo, không gì khác hơn là giao ước mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khai mạc vào Bữa ăn tối cuối cùng theo Tin Mừng Thánh Marcô, khi Ngài cầm lấy chén rượu và nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì nhiều người” (Mc 14,24), được Thánh Luca lặp lại bằng những lời này: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20; x. 1 Cr 11,25).
Trong Sắc lệnh về Giáo Hội, sau khi trích dẫn đoạn Gr 31,31-34, Công đồng Vatican II đã nối kết giao ước mới với điều răn mới như sau:
“Chúa Kitô đã thiết lập minh ước mới ấy, đó là giao ước mới trong máu Người (x. 1 Cr 11,25), Người triệu tập dân chúng từ dân Israel và từ các dân ngoại, họp thành một khối duy nhất trong Thánh Thần chứ không theo xác thịt, để làm họ nên dân tộc mới của Thiên Chúa… Luật của họ là giới răn mới: phải thương yêu nhau như chính Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34). Sau cùng, cứu cánh của họ, tức là phát triển thêm Nước Thiên Chúa, đã được Ngài khai nguyên trên trần gian, cho tới khi được Ngài hoàn tất trong ngày tận thế”.
Như vậy, Chúa Giêsu là trung gian được Thiên Chúa chỉ định, và quả thực là tác giả của giao ước mới (x. Dt 12,24). Và như giao ước trên núi Sinai qua trung gian ông Môisen có Mười Điều Răn là toàn bộ ý muốn của Thiên Chúa thì giao ước mới cũng đòi hỏi một điều răn mới để làm lề luật cơ bản. Dân mới của Thiên Chúa giờ đây có cam kết khác là phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương họ. “Gương mẫu cho tình yêu của các môn đệ là hành vi yêu thương tối thượng của Chúa Giêsu, từ bỏ cả sự sống mình10. Cam kết này được ban hành dứt khoát khi Chúa Giêsu lên trời sai Chúa Thánh Thần xuống thành lập cộng đoàn giao ước mới, Giáo Hội của Đức Kitô. Lúc đó, nhờ tình yêu được biểu lộ cho nhau mà dân mới này được nhận ra, và như Chúa Giêsu đã tiên báo: “Mọi người sẽ biết rằng các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35). 

                                                                      ( Jack Mahoney, SJ )                                                            ( Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ )




Chúa Nhật V mùa Phục sinh - Năm C
Lời Chúa: 
Ga 13,31-33a.34-35
31 Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. 32Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
33a "Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. 34 Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. 35 Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".
                                                                 
                                                                 (Nguồn: Uỷ ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016

Ánh sáng thế gian



ÁNH SÁNG CHO CUỘC ĐỜI




“Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Ngài, không có một chút bóng tối nào” (1Ga 1, 5). Thiên Chúa là Ánh Sáng có nghĩa Thiên Chúa là Chân Lý, là nguồn Suối Mạc Khải, là nguồn ơn cứu độ, “là nguồn mọi sự thánh thiện”[1].

Ðối ngược với ánh sáng là tối tăm, biểu tượng cho sự sai lầm, sự dữ hay tội ác. Thế giới tối tăm là thế giới của sự chết, của thần dữ. Nơi Thiên Chúa không có một chút bóng tối nào, nghĩa là hoàn toàn rực rỡ và vinh hiển. Ngài là ánh sáng vô biên, siêu phàm, là nguồn sáng của mọi ánh sáng, và là ánh sáng chiếu soi của sự sống muôn đời (x. Kh 22,5).

Bản chất con người được xác định bởi bản chất của vị thần mà họ tôn thờ. Những ai đón nhận Thiên Chúa thì để ánh sáng Ngài chiếu dọi lên toàn thể cuộc sống mình, không còn những ngõ ngách tăm tối trong tâm hồn. Để mình ở ngoài ánh sáng của Thiên Chúa, con người sẽ rơi vào tình trạng mê lầm và hỗn loạn, đánh mất sự sống ngàn đời là chính Thiên Chúa, nên thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vứt bỏ những việc làm tối tăm (x. Rm 13,2).


Theo sách Sáng Thế, ánh sáng là nguyên tố cao siêu và đơn thuần nhất, được tạo dựng trước tiên, là khởi điểm của trật tự giữa vùng hỗn mang và tăm tối (x. St 1,2-5). Ánh sáng đã hiện thể hóa mọi sự và khai nguyên thế giới. Ánh sáng này không gắn liền với mặt trời (ngày thứ tư mới có), và người Cận Đông coi ánh sáng là một thực tại riêng biệt với mặt trời, mặt trăng: các tinh tú này chỉ là chỗ chứa đựng ánh sáng.

Từ ánh sáng tiên khởi, ánh sáng thiên nhiên đã được làm nên (x. St 1, 14-19). Ánh sáng là yếu tố tối cần cho đời sống nhân loại, không có ánh sáng thì không thể có sự sống. Ánh sáng là nền tảng cho mọi diễn biến và chuyển động của thiên nhiên. Ánh sáng soi đường chỉ lối và làm rạng rỡ lên toàn thể vạn vật, tạo nên sắc màu cho mọi cảnh vật, làm nên sinh hoạt cho mọi sinh vật, làm triển nở cho mọi tạo vật. Không có gì trong vũ trụ này mà không cần tới ánh sáng.

Ánh sáng xác định sự hiện hữu và hình thái của mọi sự vật, sinh vật và con người. Ánh sáng cho thấy ý nghĩa và giá trị của từng môi trường và mọi hoạt động nhân sinh. Đời sống xã hội con người là một hành trình vượt qua để vươn tới ánh sáng văn minh, tiến bộ. Vì những yếu tố trên mà ánh sáng và sự sống đã chung kết nên một, không thể có sự sống mà không có ánh sáng, có ánh sáng là có sự sống triển nở và vươn tới thành toàn.  

Ánh sáng xét theo Phong Thủy là điều rất quan trọng trong mọi sinh hoạt, cách riêng về nơi ăn chốn ở. Ánh sáng sẽ xua tan khí ứ đọng trong nhà, nó là nguồn năng lượng có khả năng thúc đẩy sự lưu động của các luồng khí bị ngăn chặn. Ánh sáng giải vây mọi tù túng, cứng đọng, làm tan loãng sự âm u và lạnh lẽo của bóng tối, làm khởi sắc mọi hoạt động. Biết nhận đúng loại và đủ ánh sáng rất cần thiết cho sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc của chúng ta. Vì thế, việc chọn lựa phương hướng phải phù hợp với ánh sáng tự nhiên và thích ứng với cơ địa của mình, để tạo nên sự hài hòa tâm-thể và làm phấn chấn tâm-trí.   

Trên phương diện tinh thần, ánh sáng của Thiên Chúa là minh trí, huệ trí, phơi bày mọi tình trạng của tâm hồn con người, và là biểu hiện của sự thiện hảo. Ánh sáng cho thấy nẻo chính đường ngay, xuyên qua mọi vùng tăm tối của gian tà và tai ác. Đời người là một hành trình vượt qua để vươn tới ánh sáng chân lý, ánh sáng thần thiêng. Ánh sáng là đỉnh cao của sự thuần khiết trong tâm hồn; là sự thanh khiết của một tính cách; là sự tinh khiết của một phẩm hạnh. Trong ánh sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa, con người trở nên ánh sáng, và đạt tới Ánh Sáng là chính Đức Giêsu, “Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha” (Ga 1,18).


“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Để diễn tả Đức Giêsu là ánh sáng thật, thánh Gioan đã dùng hai từ ngữ rất ý nghĩa. Trong tiếng Hy Lạp hai từ này rất giống nhau:

-       Alethes (αληθής) nghĩa là thật, đối lập với giả.

-       Alethinos (αληθινός) nghĩa là đích thực, đối lập với không thực.

Trước khi Đức Giêsu đến, đã có những ánh sáng khác cho loài người noi theo: một số là những tia sáng chớp lóe của chân lý; một số là những cái nhìn thoáng mờ về thực tại; một số khác nữa giống như những đốm lửa rơm lóe lên rồi chợt tắt. Ngày nay vẫn có những tia sáng mập mờ, nhạt nhòa, mà con người vẫn hướng theo.

Chính Đức Giêsu là ánh sáng đích thực duy nhất để soi chiếu nhân gian, và đưa con người tới bến bờ vĩnh hằng. Ngài đã muốn sinh ra trong bóng tối để chiếu lên ánh sáng của Thiên Chúa. Từ bao đời thế lực sự dữ muốn nhấn chìm con người trong bóng tối: từ bóng tối kiêu căng của Evà đến bóng tối ghen ghét của Cain; từ bóng tối khép kín số phận con người vào sự vô nghĩa của định mệnh đến bóng tối cá nhân và hưởng thụ hiện nay.

Đức Giêsu đã trở nên trẻ thơ trong sự tinh ròng thánh thiện, là ánh sáng phá tan bóng tối sự dữ đang vây bọc con người. Ngài đã làm người, biểu hiện ánh sáng khiêm nhường. Ngài đã sống triệt để thánh ý Thiên Chúa, biểu hiện ánh sáng yêu thương. Ngài đã chết đi cho tội lỗi nhân loại, biểu hiện ánh sáng quên mình. Ngài đã xóa đi ghen ghét hận thù biểu hiện ánh sáng hòa bình. Ngài đem lại ơn cứu độ, biểu hiện ánh sáng của hạnh phúc muôn đời.

Đức Giêsu đã khẳng định: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Ngài là ánh sáng soi trong tối tăm (Ga 1, 5), dẹp tan cảnh hỗn mang hoảng loạn trong lòng người đang bị đam mê, dục vọng và sợ hãi xâu xé. Nơi Ngài, người ta thấy được Thiên Chúa. Trong Ngài, con người được giải phóng khỏi mọi bóng tối tội lỗi và sự chết.

Từ ngữ bóng tối (skotos, skotia) xuất hiện 7 lần trong Phúc Âm Gioan. Bóng tối tiêu biểu cho lãnh vực tự nhiên của tất cả những ai ghét điều thiện. Kẻ làm điều gian ác và xấu xa mới sợ ánh sáng (x. 3, 19. 20). Bóng tối còn tiêu biểu cho sự ngu dốt, nhất là ngu dốt cố ý khước từ ánh sáng Chúa Kitô (x. 8,12). Thời thánh Gioan Tông đồ có một tôn giáo lớn của Ba Tư (Zoroastrianisme) ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng con người. Tôn giáo này tin rằng trong vũ trụ có hai lực lượng lớn đối lập nhau, là thần ánh sáng (Ahriman) và thần bóng tối (Ormuzd): toàn thể vũ trụ là bãi chiến trường cho cuộc xung đột ngàn đời giữa ánh sáng và bóng tối. Điều quan trọng nhất là con người lựa chọn đứng về phía nào?

Ánh sáng Chúa Kitô đã khai mở một kỷ nguyên mới cho nhân loại, và đang âm thầm len lỏi vào mọi ngỏ ngách của đời sống con người (x. Ga 11,1), để giúp con người trở thành con cái của ánh sáng (x. Ga 12, 36). Ánh sáng Chúa không chỉ chiếu dọi, thanh luyện, nhưng còn chữa lành, gia tăng sức sống và thần hóa đời ta. Đời sống không có Chúa là đời sống trong tăm tối. Trong tăm tối, cuộc sống chỉ còn là hư vô, và mọi sự trở thành vô nghĩa.

Chúa Kitô, Vị Thầy duy nhất (Mt 23, 8) đem đến cho nhân loại sự sung mãn về mạc khải Thiên Chúa. Tuy nhiên, vẫn cần một vị giáo sư có khả năng làm cho giáo huấn của Chúa Giêsu thấu suốt trái tim và tinh thần nhân loại, là Chúa Thánh Linh,  Đấng mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ (Ga 20, 22). Trong mọi thời gian và không gian, ngay cả trong những biến cố thay đổi không ngừng của đời sống, Thánh Linh vẫn luôn hướng dẫn Giáo Hội “tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13).


Nói chung, chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của sự lạc hậu, thiếu văn minh. Thế nhưng nhiều người vẫn ham mê bỏ tiền ra để mua cho được bóng tối. Trước khi có bóng tối bên ngoài thì đã có bóng tối bên trong. Bóng tối bên trong khiến người ta cần đến bóng tối bên ngoài, vì các việc họ làm đều xấu xa(Ga 3,19). Để đón nhận và bước đi trong ánh sáng, đòi ta phải bước ra khỏi vùng u tối, nghĩa là cần một sự hoán cải nội tâm để xoay hướng đời mình theo hướng của ánh sáng.

Ánh sáng và bóng tối của trời đất là điều mà ta chứng kiến mỗi ngày, chúng ta có thể gọi tên và phân biệt dễ dàng. Thế nhưng ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn ta thì quả là phức tạp. Ta thường mệt mỏi khi phải đối diện với những xung đột trong chính tâm hồn mình, khi bị đặt giữa những giằng co của ánh sáng và bóng tối. Trong tâm hồn ta luôn có những vùng đầy ánh sáng, là niềm vui, hạnh phúc, những ước mơ đơn sơ ngay lành. Dẫu vậy, trong chính tâm hồn mình vẫn có những vùng bị phủ đầy bóng tối: bóng tối của buồn sầu chán nản, của ích kỷ tự mãn, của những mưu mô, ghen ghét và hận thù, của cả những thói quen xấu xa khiến ta cứ phải kéo lê cuộc đời mình vì không đủ can đảm để dứt bỏ.

Ánh sáng và bóng tối gần với ta như thế, nên ta có thể để cho mình chan hòa ánh sáng, nhưng cũng có thể vùi mình trong bóng tối. Tin Mừng Gioan ghi lại nhận xét của Đức Giêsu trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng” (Ga 3,19).

Nói đến yêu chuộng bóng tối có vẻ khó nghe, nhưng lắm lúc lại thật đúng với lòng mình. Có những lúc ta thấy mình cần chút bóng tối để nương náu, nhất là những lúc thất bại ê chề, những lúc hổ ngươi bẽ mặt, những lúc sai lầm lỗi phạm… Dường như bóng tối che chở ta và cho ta cảm giác an toàn. Ta thấy dễ chịu hơn khi bước đi trong bóng tối. Có những lúc bóng tối là môi trường thuận lợi để ta tự do làm điều mình muốn, sống điều mình thích.

Điều nguy cơ là ta dễ bị nghiện bóng tối. Như người mù đã quen đường đi lối bước trong nhà, ta cũng quen hành động trong bóng tối như thế. Sống càng lâu trong bóng tối, ta càng ngại bước ra ánh sáng. Ánh sáng khiến ta có cảm giác bị phơi trần, bị dò xét, bị phân xử. Ánh sáng khiến mắt ta bị chóa lòa và đau nhức. Phải chăng vì cuộc đời ta đã quá quen với bóng tối?

Đức Giêsu giải thích thực trạng trên thật rõ ràng: “Phàm ai làm điều dữ, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3, 20). Thật thế, ánh sáng bắt ta phải đối diện với sự thật. Ánh sáng chất vấn và đòi ta phải đặt lại nhiều vấn đề trong cuộc đời mình. Ánh sáng làm bại lộ những điều ta muốn giữ kín, thấy mình mất an toàn, bị đe dọa.

Tuy nhiên, vẫn có một sự thật hiển nhiên mà ta không muốn nghĩ tới: đó là không phải không có đe dọa trong bóng tối, nhưng là vì trong bóng tối, ta không thấy mình bị đe dọa. Hãy nhớ rằng, dù có bước đi với cảm giác an toàn trong bóng tối, ta vẫn là một nạn nhân bị chộp giữ. Ta tưởng mình được tự do, nhưng thực ra là đang cuốn mình lại, không dám lộ mặt ra trước ánh sáng. Ta tưởng mình được bình an, nhưng thực sự đang bất an. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối luôn là cuộc chiến không khoan nhượng, hoặc là ta thuộc về ánh sáng, hoặc là ta sẽ bị bóng tối kiềm giữ, không có tình trạng thứ ba.

Chúa thấy hết mọi diễn biến đó trong tâm hồn ta, và Ngài không ngừng chiếu dọi ánh sáng: có thể là một lời nhắc bảo nhẹ nhàng giúp ta cảnh giác; một tấm gương sống thật đẹp mời ta vươn lên; một cử chỉ thân ái làm ta mở lòng; một nụ cười làm ta tươi tỉnh; một khám phá mới về ý nghĩa đời mình khiến ta đổi mới.

Tuy nhiên, vẫn có những đêm tối đức tin trong cuộc đời cần thiết như một sự tinh luyện. Ánh sáng lúc đó dường như biến mất, và mây đen bao phủ. Cảnh vực đó thường làm ta chới với, cảm thấy lâm nguy, mất định hướng. Cứ hãy giữ vững lòng mình, đừng nao núng và hốt hoảng, cứ bám sát lấy Chúa. Chúa không bao giờ rời xa ta, chỉ có ta là muốn xa rời Chúa. Biến động cũng là một cách Chúa hành động để mong có một sự chuyển động tốt hơn trong đời ta.

Đó có thể là lúc Chúa muốn biểu hiện tình yêu và quyền năng của Ngài (x. Mt 14,26). Cứ kiên trì dù ánh sáng không còn, nhưng còn cánh tay Chúa luôn che chở và dìu ta qua đêm tối mịt mù. Cứ ở trong Chúa thì ánh sáng không thể mất. Ánh sáng ấy chỉ lẩn khuất trong bóng đêm để lòng ta thêm ước muốn và khao khát. Khao khát ánh sáng cũng chính là khao khát tình yêu, điều mà Chúa ham thích nơi tâm hồn mỗi người.

Đó cũng là kinh nghiệm thần bí của R. Tagore, được diễn đạt qua những vần thơ sau:

“Ánh sáng, ồ ánh sáng đâu rồi? Hãy lấy lửa thèm muốn nhóm ánh sáng lên nào!...

Thống khổ đến gõ cửa nhà ngươi, nhắn lời rằng chủ ngươi đang thức, và chờ ngươi tới nơi hẹn hò tình tự qua bóng tối màn đêm.

Chớp chợt sáng kéo màn âm u xuống thấp che kín mắt ta.

Tim ta lần lối tìm đường tới nơi nhạc đêm đang réo gọi.

Ánh sáng, ồ ánh sáng đâu rồi?

Hãy lấy lửa thèm muốn nhóm ánh sáng lên nào!

Sấm rền, gió cuốn rít kêu khắp bầu trời rỗng không.

Đêm tối như là tảng đá đen.

Đừng để thời gian trôi đi trong bóng tối.

Hãy thắp sáng đèn tình yêu bằng cuộc sống của ngươi”.

Trong đêm tối đức tin lại là lúc “chủ ngươi đang thức và chờ ngươi tới nơi hẹn hò tình tự”. Kinh nghiệm thần bí của R. Tagore cũng là kinh nghiệm thiêng liêng ít nhiều của một tâm hồn đang hết lòng khao khát Chúa. Thiên Chúa luôn dành cho ta những niềm vui bất ngờ, khôn tả, vì thế “đừng để thời gian trôi đi trong bóng tối. Hãy thắp sáng đèn tình yêu bằng cuộc sống của ngươi”.


Con mắt như là khung cửa kính để ánh sáng chiếu vào toàn thân (x. Mt 6, 22). Ánh sáng như thế nào là do màu sắc và tình trạng của khung cửa kính. Nếu khung cửa kính sạch bụi và trong suốt, ánh sáng tự động tràn vào phòng và mọi chỗ. Trái lại, nếu nó bị dơ bẩn hay lu mờ thì ánh sáng bị ngăn chặn và căn phòng mờ tối.

Trong ý nghĩa đó Đức Giêsu nói đến ánh sáng soi chiếu tâm hồn con người xuyên qua cách nhìn của người đó: “Nếu mắt anh sáng, toàn thân anh sẽ sáng… nếu mắt anh xấu, toàn thân anh sẽ tối” (Mt 6, 23).

Quan điểm, cách thức và góc độ nhìn về tha nhân nói lên mức độ ánh sáng hay bóng tối trong tâm hồn chúng ta. Chính từ những yếu tố đó mà sự thật được hiển hiện nhiều hay ít, chuẩn xác hay lệch lạc. Mặt khác, có khi đôi mắt tâm hồn bị vây vướng chằng chịt bởi những lớp bụi bặm và dơ bẩn của thế gian, khiến ta bất phân thị phi, làm méo mó sự hiện diện của người khác ngay từ trong tâm khảm mình. Thường thì có những tình trạng sau đây:

Thành kiến[2] làm lệch lạc nhãn quan

Thành kiến khiến chúng ta mất sáng suốt trong nhận định, mất quân bình trong phán đoán, mất sự hợp lý và hữu tình trước mọi phản ứng. Thành kiến chỉ đơn thuần là thái độ bám víu vào hiểu biết và kinh nghiệm cũ để áp đặt lên thực tại hay một hoàn cảnh mới. Nói dễ hiểu là ta thường đeo mắt kính màu hồng hay màu đen khi nhìn người, nhìn đời, đang khi mọi sự trong vũ trụ vốn không ngừng biến chuyển, chúng có thể tốt hơn hoặc tệ hơn, không bao giờ giữ nguyên trạng thái. Cuộc sống quá bận rộn nên ta không có nhiều thiện chí để nhìn bất cứ đối tượng nào cũng bằng tâm thức mới, nên thường sử dụng kinh nghiệm cũ, có vẻ như dễ dàng và mau chóng giải quyết được vấn đề, và kết quả là may nhờ rủi chịu.

Hành động đó do bản năng tự vệ của con người, chưa ra khỏi mình, còn quá vụng về và thô thiển. Quả thật, “Đánh đổ một thành kiến khó hơn làm phân hủy một nguyên tử” (Einstein). Bởi vậy, hầu hết những khám phá mới đều phải trải qua một quá trình đấu tranh với những thành kiến. Khi James Simpson khám phá ra hiệu năng của chất chloroform, ông phải đấu tranh với thành kiến của thế giới tôn giáo và y học lúc đó. Người viết tiểu sử của ông đã ghi: “Thành kiến, một cả quyết què quặt, ngoan cố đi trên những lối mòn và tránh né những con đường mới, nỗ lực ngăn chặn ân huệ mới tìm được”. Không lạ gì, “Thành kiến là con đẻ của sự dốt nát” (Hazlitt).

Cái cũ tuy quen thuộc nhưng nghèo nàn; cái mới thường không dễ chịu nhưng dồi dào phong phú, có khả năng đem lại một chân trời tươi sáng cho đời sống. Vì thế, ta phải dám khai tử những ý niệm hay những kinh nghiệm vốn chỉ để bảo vệ cảm xúc nhất thời. Những người bị thành kiến khống chế sẽ không còn cơ hội để thấy được những giá trị và mầu nhiệm của sự sống đang hiện hữu, họ dễ trở thành nạn nhân của lối sống u uất nặng nề, dễ đi tới mặc cảm, lạnh lùng và bế tắc.

Lòng ghen tị làm mờ tối nhãn quan

Ghen tị vì thấy mình thua kém người khác, nhưng điều cao vượt trong cuộc sống không phải là vượt lên người khác, mà là vượt lên chính mình. Lo buồn khi thấy người khác hơn mình là điều phi lý, là tâm trạng thấp kém và tự hạ giá phẩm cách của mình. Vấn đề triển nở đời sống không phải là vấn đề hơn thua, mà là phát huy tư chất cao đẹp của mỗi người.

Mình là mình, đâu thể là người khác. Cần khám phá bản thân mình để thấy những điều tốt, đồng thời học hỏi nơi người khác những điều hay. Ghen tị vì sợ người khác giỏi hơn mình, hoặc ôm mối oán ghét những ai có cảnh ngộ, tài năng, danh giá, địa vị hơn mình, là một loại tâm lý bệnh hoạn.

Ghen tị là một cảm xúc dày vò và đay nghiến ta hằng ngày. Nếu không thể hiểu được những nguyên nhân phía sau lòng ghen tị của mình, ta sẽ không bao giờ có được một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Các nhà y học cho rằng, ghen tị ảnh hưởng đến các hệ thống tiêu hóa, thần kinh, miễn dịch, gây ra nhiều chứng bệnh. Về phương diện tinh thần, Bourdaloue cho biết: “Lòng ghen tị len lỏi vào tâm hồn, làm mờ ám trí tuệ  và chai đá con tim”.

Ghen tị là sự kết hợp của nỗi sợ và giận dữ: nỗi sợ bị mất đi thứ gì đó, và giận dữ vì người nào đó có cái mà ta muốn. Cảm xúc đó có thể khiến ta tự co rút bản thân để lẩn tránh nỗi đau. Nhiều cuộc hôn nhân và tình bạn bị đổ vỡ chỉ vì ghen tị. Ghen tị đã bóp méo những sự việc vô tình thành những hành động tội ác, hủy hoại sự thật và làm tan vỡ tình yêu thương, hiệp nhất.

Tính tự phụ che phủ nhãn quan

Trong nguyên ngữ Hy Lạp, tính tự phụ gọi là hyperephanía (ghép bởi hai từ hyper: vượt quá, và phaíno: xuất hiện), ám chỉ điều gì xuất hiện quá thực chất của nó. Tự phụ là tự tôn phong mình, tự thổi phồng mình. Trong khi lòng ghen tị nổi lên vì thấy mình thua kém người khác, thì tính tự phụ dấy lên vì thấy mình hơn người khác.

Tính tự phụ thúc đẩy ta so sánh với người khác: trước tiên là để minh định mình không như họ, tiếp đến là xác định mình hơn họ. Tự nâng mình lên và hạ người khác xuống là thái độ hàm hồ của người tự phụ (x. Lc 18,11).

Thái độ này dẫn đến hành vi chê bai, xét đoán, phê phán, dèm pha và chỉ trích tha nhân.

Thánh Climacus ví kẻ tự phụ giống như người nằm chiêm bao, bày ra đủ trò khoái lạc. Tiếc là chúng chỉ xuất hiện trong óc tưởng tượng thôi. Nói thế có nghĩa là kẻ tự phụ đã tự lừa dối mình. Vì sống trong ảo tưởng, nên kẻ tự phụ cũng không thấy được thực chất quan trọng của những gì bé nhỏ thường ngày. Thánh Phaolô đã dùng một hình ảnh rất đẹp về điều đó khi so sánh với các cơ quan trong một thân thể: những bộ phận xem ra kém nhất thì lại trở nên quan trọng cho sự sống (x. 1Cr 12,14-26).

Xét cách sâu xa hơn, người tự phụ cậy dựa vào sức lực cá nhân thay vì tin tưởng vào sự trợ lực của Thiên Chúa. Sở dĩ ta dám đặt mình lên trên tha nhân vì coi cuộc sống là một sự chiếm hữu chứ không phải một ân ban. Tính tự phụ thường phát sinh khi nào con tim vắng bóng Chúa hoặc Chúa bị che khuất bởi cái “tôi” của mình. Do đó, cám dỗ tự phụ là ngọn đòn chí tử cuối cùng mà ma quỉ thường dùng để kết liễu trận chiến đối với những ai đã dầy công trên đường nhân đức, vì nó chỉ chiến thắng khi tách lìa ta ra khỏi Thiên Chúa.

Tính tự phụ có ảnh hưởng gấp đôi trên nhãn quan một người, khiến người ấy không còn nhìn về Chúa, không còn thấy được thực trạng của mình và tha nhân. Ánh sáng mà người ấy nhờ đó để thấy mình và thấy người khác sẽ chỉ còn là bóng tối.

Tính hẹp hòi ích kỷ khóa chặt nhãn quan

Từ “sáng” trong tiếng Hy Lạp là haplous. Trong Thánh Kinh, từ này thường có nghĩa là rộng rãi, bao dung. Thánh Giacôbê cho thấy Chúa là Đấng ban cho cách rộng rãi (x. Gc 1,5). Thánh Phaolô khuyên tín hữu bố thí cách rộng rãi (x. Rm 12, 8).

Còn từ “Mắt xấu” trong tiếng Hy Lạp là poneros. Bản Bảy Mươi và Tân Ước dùng từ này với nghĩa keo kiệt, bần tiện. Khi dùng từ này (x. Mt 6, 23) Chúa Giêsu muốn nói: “Chỉ lòng rộng rãi mới giúp người ta có cái nhìn trong sáng, đúng đắn về con người và cuộc sống. Còn tính keo kiệt, tinh thần hẹp hòi sẽ làm cái nhìn trở nên thiển cận”[3].

Hằng ngày tiếng thơm của nhiều người vô tội bị chôn vùi dưới miệng lưỡi của những kẻ tâm địa hẹp hòi. Tha nhân sẽ bớt phiền não biết bao nếu ta có cái nhìn bao dung rộng mở. Dù xấu đến đâu thì người rộng rãi bao dung vẫn được quí mến, nhưng dù tốt đến mấy thì người keo kiệt bần tiện cũng đều bị chê ghét. Chỉ có đôi mắt rộng rãi bao dung mới là đôi mắt sáng, để thấy rõ và thấy theo cái nhìn của Chúa. Ánh sáng Chúa luôn rực rỡ khiến ta ước ao được tinh luyện và trở thành ánh sáng.


Thiên Chúa nói với chúng ta qua ngôn sứ Isaia như sau: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49,1-6).

Dân Do Thái vẫn từng nói về Giêrusalem là “Ánh sáng cho dân ngoại” (Is 42, 6; 49, 6). Một Rápbi danh tiếng thường được gọi là “Ngọn đèn của Israel”. Có một điều mà người Do Thái quả quyết là không ai tự thắp đèn của mình. Tuy Giêrusalem là “ánh sáng của dân ngoại”, nhưng chính Thiên Chúa đã thắp sáng “ngọn đèn Israel” (Tv 18,29). Như vậy, ánh sáng mà dân tộc hoặc người của Thiên Chúa soi chiếu chỉ là ánh sáng vay mượn.

Cách người Do thái dùng từ này là chìa khóa mở ra ý nghĩa nội dung mà Chúa Giêsu dùng nó. Ngài đã xác định vai trò và tính chất của những người theo Ngài như sau: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Chúa Giêsu muốn nói về hiện hữu thâm sâu nhất của những ai ở trong Ngài. Điều này đòi hỏi các môn đệ phải nên đồng hình đồng dạng với Thầy mình (x. Pl 3,10).

Chúng ta đã đón nhận ánh sáng qua Phép Rửa, trở thành ánh sáng qua Phép Thêm Sức, làm một với ánh sáng qua Phép Thánh Thể. Trong ánh sáng Chúa Kitô, chúng ta trở nên ánh sáng để đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Chúa không đòi ta tạo ra ánh sáng cho mình mà chỉ cần ta phản chiếu ánh sáng của Ngài. Ánh sáng đó tỏa ra do sự hiện hiện của Chúa trong lòng mình. Ai đã quen chiêm ngắm Chúa và chìm sâu trong Ngài, thì cũng thấm nhuần lối sống và cách hành động của Ngài. Đó là điều phản chiếu tự nhiên và cũng rất siêu nhiên, vì tình yêu đã làm cho cả hai nên một. Người ta thường trông thấy diện mạo của một cô dâu rạng rỡ, nhưng sự rạng rỡ đó do tình yêu phát ra từ trong lòng nàng. Cũng vậy, cứ để cho tình yêu Chúa thấm nhập vào lòng mình và dâng trào cách tự nhiên thì tự động ta trở thành ánh sáng của Chúa. 

Ánh sáng soi chiếu

Là môn đệ Đức Kitô, chúng ta phải tự minh định đời mình là cây đèn cháy sáng. Vị trí của cây đèn là phải đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người nhìn thấy đường đi (x. Lc 8,16-18). Kitô giáo tự bản chất là một điều gì phải nêu cao, phải phô diễn trong đời sống các tín hữu. Nếu đời Kitô hữu chỉ dừng lại ở cửa nhà thờ thôi thì chẳng ích lợi cho ai. Ánh sáng của chúng ta phải biểu lộ trong tương quan với mọi người, mọi sự: trong thái độ, cung cách, lời ăn tiếng nói, giao tiếp, ứng xử, v.v.

Chính Chúa Giêsu đã minh định: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Trong tiếng Hy Lạp có hai từ chỉ về sự “tốt”, “đẹp”:

- Agathos (αγαθός) : chỉ cái gì tốt về phẩm chất.

- Kalos (καλός): chỉ một vật hay một việc không chỉ tốt mà còn đẹp, hấp dẫn,  có sức chinh phục.

Từ được dùng ở câu Phúc Âm trên là Kalos (καλός). Các việc lành của chúng ta không chỉ tốt thôi mà còn đẹp hấp dẫn nữa. Chắc chắn một việc lành như thế phải hoàn toàn vị tha, vì Làm lành mà mong trời báo thì không được phúc, làm ơn mà chờ người trả thì không được đức” (Dã Thạch Quỳ). Đó không chỉ là một vài nghĩa cử hay hành vi cao đẹp khiến người ta thán phục, khen lao, nhưng là cả một đời sống hy sinh âm thầm.

Có những khi ta làm việc lành theo lề thói bên ngoài, còn bên trong tâm hồn vẫn cứng cỏi, lạnh lùng và nghiêm khắc, không chiếu dọi được ánh sáng dịu dàng và khả ái, là nét hấp dẫn của Đức Kitô. Đó là chưa nói tới những trường hợp ta làm việc lành với ý đồ chiếm cứ danh lợi, làm thô thiển khuôn mặt Đức Kitô trong đời mình.

Người tốt lành là người không hề muốn lôi kéo sự chú ý của người khác, nhưng qui hướng họ về Chúa là nguồn ánh sáng. Chính Chúa mới tiếp tục tuôn đổ trên cuộc đời họ ánh sáng chân lý, sự sống và tình yêu không bao giờ vơi cạn. Mong muốn lôi kéo sự cảm phục của người khác để làm nên danh giá hay uy tín cho mình là một ý đồ nham hiểm, là muốn dùng ánh sáng Chúa như bình phong để đánh bóng cho bản thân. Việc tốt lành lúc đó sẽ biến thành mưu toan, và ánh sáng trong ta chẳng mấy chốc lụi tàn.

Ánh sáng dẫn đường

Trước bao nhiêu bóng tối của cuộc đời, Kitô hữu là người soi đường dẫn lối cho kẻ khác (x. Pl 2,15), nghĩa là phải nên gương sáng cho họ. Thế gian luôn cần những con người làm gương, làm tiêu chuẩn cho điều thiện hảo. Trước những áp bức, bất công, kỳ thị, gian trá… nếu không có ai dám lên tiếng, thì tất cả sẽ lặn chìm trong sự tối tăm. Nhưng nếu có ai dám can đảm lên tiếng thì mọi người sẽ làm theo. Nếu người nào đủ sức mạnh đạo đức và lòng kiên vững thì người ta sẽ noi theo để làm điều thiện.

Phận sự của chúng ta là giữ vững lập trường để anh em yếu đuối được nương tựa. Sức mạnh của chúng ta là ở trong Đức Kitô, luôn là ánh sáng của Ngài, để hướng tha nhân vào đường đoan chính, là khởi xướng lên hành động cao đẹp để họ có thể làm điều mà tự họ không dám làm.

Ánh sáng báo hiệu

Ánh sáng cũng là ngọn đèn báo hiệu cho ta biết phải dừng lại hay quay về hướng nào. Nó còn là lời cảnh giác cho ta thấy những tình huống nguy hiểm đang ở phía trước. Bổn phận Kitô hữu là đem lại sự cảnh tỉnh cần thiết cho đồng loại. Một trong những tình cảnh bi đát nhất của đời sống con người, nhất là các bạn trẻ, là không nhận được lời cảnh giác sớm hơn hay đúng lúc, để rồi có khi phải hối tiếc và đau thương một đời. Nếu những lời cảnh giác hoặc cảnh cáo của ta đưa ra không vì giận dữ hay tức bực, không mang tính chỉ trích, lên án, gây tổn thương cho người khác, nhưng với tình thương chân thật thì hiệu quả biết bao!

Ánh sáng chan hòa mang lại sinh khí và sức sống mới cho cuộc đời chính là ánh sáng Chúa Kitô, đã được chuyển thông vào toàn thể cuộc sống chúng ta, để mỗi người trở nên cây đèn sáng trong Ngài.


Điều đáng ngại là ta dễ bị cám dỗ để sống rập khuôn theo lối sống người đời. Vì sợ bị nhạo báng chê cười, sợ bị coi là người cổ hủ, không tiến bộ, có khi bị coi là những kẻ sống ngược đời, nên ta phải che giấu cây đèn của mình dưới đáy thùng hay gầm giường (x. Mc 4, 21).

Dù đời sống ta có nhiều khó khăn và quẫn bách thì phải nhớ rằng, bản chất của mình là cây đèn chiếu sáng của Đức Kitô. Đó không chỉ là một trách nhiệm mà trước tiên là một đặc ân đã được trao ban. Ít khi ta ý thức sâu xa về điều này, nên nhiều khi sống lập lờ, lấp lửng, hoặc hổ thẹn che giấu ánh sáng mình trong mọi tương quan:

- Che giấu với chính mình. Đó là thái độ nhắm mắt làm ngơ trước những hậu quả mà ta biết rõ. Cũng như người mắc bệnh hiểm nghèo mà cứ ém nhẹm để mong nó tự động qua đi; hay như con chim đà điểu khi gặp thợ săn thì cứ nhắm mắt chui đầu vào đống cát và đưa cái lưng ra ngoài, tưởng rằng không nhìn thấy nữa thì sẽ yên thân. Người che giấu với chính mình nghĩ rằng đó là cách thế an toàn, nhưng rồi không an bình, vì xung đột vẫn nổi lên và nguy nan đang kéo đến. Không sống thật với chính mình là đánh mất chính mình.

- Che giấu với đồng loại. Kẻ phải luôn che giấu với người khác là kẻ không có hạnh phúc, cứ phải nơm nớp lo sợ: sợ người người khác chê bai, sợ liên lụy, sợ mất mát thiệt thòi, sợ đau thương.... Nhưng rồi “chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không đưa ra ánh sáng” (Lc 8,17). Có những sự thật phải can đảm nói lên; có những niềm vui nỗi buồn cần chia sẻ; có những kinh nghiệm nên trao đổi; có những tệ trạng và xấu xa đòi phải khử trừ… Đáng tiếc là có những chủ thuyết sai lầm, những chủ trương sai lạc, những lối sống sai quấy, những giả trang và ngụy tạo gây nên bao hư hại cho đời sống con người, nhưng ta vẫn im hơi lặng tiếng. Phải chăng đó là thái độ đồng lõa, thỏa hiệp với sự dữ?

- Che giấu với Thiên Chúa. Có gì che giấu được Thiên Chúa, nhưng rồi nhiều khi ta vẫn khép kín lòng mình. Dường như có gì đó bất an khi mở lòng mình ra với Chúa? Phải chăng ta muốn làm ngơ trước một tệ trạng mà mình chưa muốn vượt qua? Phải chăng ta sợ mất mát, đau thương và tủi nhục? Thật ra, trạng thái chữa lành bao giờ cũng gây nên nhức nhối và khiến ta cảm thấy nhục nhằn, nhưng sau đó là niềm vui và hạnh phúc. Không trải nghiệm về một sự sống dồi dào và phong phú hơn nên ta cứ phải bưng bít với bản thân và né tránh Thiên Chúa dưới nhiều cách thái.

Hãy can đảm mở lòng ra! Cứ hãy cháy sáng và đặt cây đèn đời mình vào vị trí mà Chúa muốn. Lúc đó, ta sẽ thấy mọi sự khác đi, không còn ngậm ngùi, nhưng chan hòa niềm vui sự sống cho mình và tha nhân.

Biết rằng, đèn càng cháy sáng càng tốn nhiều nhiên liệu, nghĩa là phải chấp nhận hao mòn sức khỏe, tâm trí, thời giờ, tiền của… mà nhiều khi còn gặp nhiều hiểu lầm, chống đối, bị từ chối và loại trừ… có khi còn phải thiệt thân như Đức Kitô là Ánh Sáng. Nhưng ánh sáng của ta không mất đi trong sự cạn kiệt hay cái chết tạm bợ của đời sống này, nhưng lại bừng sáng lên trong Ánh Sáng Phục Sinh, kết hiệp làm một với Ánh Sáng Vĩnh Cửu.

Kết luận

Để kết luận, ta nghe Mẹ Têrêxa kể lại một ngày kia tại Melbourne, Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, trong một căn phòng dơ dáy, hôi tanh, không có ánh sáng. Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt:

-   “Bà cứ để mọi sự như cũ. Tôi quen như vậy rồi”.

Dù thế, Mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc dọn dẹp và gợi chuyện để nói với ông. Tình cờ, dưới một đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta:

-  “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Sao ông không bao giờ thắp sáng nó lên vậy?”.

Người đàn ông này đáp:

-  “Tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó vì có ai đến thăm tôi đâu!”

Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu:

-       “Thưa các Sơ, kể từ nay, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Xin nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi rằng, ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.

Cây đèn bên ngoài đã được thắp lên, vì ngọn đèn trong tim ông đã sáng lên. Ánh sáng đó được truyền qua nhờ lòng nhân ái của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.

Ánh sáng hay ngọn lửa mà Đức Kitô đã thắp lên vẫn luôn cháy sáng và lan tỏa trong thế giới hôm nay. Ngọn lửa tình yêu ấy vẫn âm ỉ và bốc cháy trong tôi, trong anh, trong chị, trong mọi người. Đừng để ngọn lửa ấy nguội dần theo năm tháng, nhưng hãy nung nấu mạnh hơn nữa trong sự gắn bó với Đức Kitô và tìm cách lan rộng đến tha nhân, nhất là trong sự phục vụ những người bé nhỏ, nghèo hèn, đang sống trong cô đơn, buồn phiền, thất vọng. Trong ánh sáng của Đức Kitô, mỗi người chúng ta phải trở nên ánh sáng cho người khác trong một thế giới còn nhiều tối tăm, để tất cả được chiếu sáng trong sự Phục Sinh vinh hiển của Chúa. Đó là sứ mạng cao cả và là niềm vui lớn lao cho chúng ta hôm nay và mãi mãi.

Lạy Chúa Giêsu! Ánh sáng linh thiêng của đời sống nhân loại chúng con. Con vô vàn cảm tạ Chúa, Đấng đem lại cho con ánh sáng sự sống, ánh sáng tình yêu, ánh sáng tự do, ánh sáng bình an và hạnh phúc ngàn đời.

Cuộc đời vui biết bao khi con ở trong ánh sáng của Chúa. Con chỉ cảm thấy buồn sầu và ray rứt khi để cho bóng tối len lỏi vào trong tâm trí mình.

Con thấy thật an bình và hạnh phúc khi vui hưởng ánh sáng thánh thiện của Chúa, khi trở nên ánh sáng cho anh em mình. Nhưng rồi, bóng tối vẫn là một cám dỗ không ngừng trên mọi phương diện của đời sống.

Mất ánh sáng của Chúa, con cảm thấy ngột ngạt, nặng nề, khốn khổ. Mất ánh sáng của Chúa, con mất hứng thú để sống, mất niềm vui để sáng tạo, thấy mọi việc mình làm đều vô vị, vô nghĩa, vô vọng. 

Thỉnh thoảng con lại khám phá ra trong mình vẫn còn những chỗ tối tăm chưa được khai sáng; vẫn còn những cảnh mù mờ chưa được khai quang; vẫn còn những ngục thất chưa được khai phóng; vẫn còn những hỗn mang chưa được khai nguyên.

Con thấy ánh sáng Chúa dẫn đưa con đi trên mỗi chặng đường, nhưng vẫn có bóng tối trên từng đoạn đường. Dù tình thế nào thì xin cho con vẫn bám sát lấy Chúa trên suốt con đường.

Chúa biết tình trạng không hay không tốt nơi chúng con, nhưng vẫn tín nhiệm đặt chúng con là ánh sáng của Chúa cho trần gian. Xin tinh luyện tâm hồn chúng con nên tinh sáng hơn, để ước vọng của Chúa nơi chúng con được hoàn thành, và hy vọng của chúng con nơi Chúa được hoàn tất. Amen. 

                                                                              ( Lm. Thái Nguyên )




Gặp gỡ Giới trẻ Giáo hạt Phú Thọ tại Nhà thờ Phú Bình, Q 11 , vào ngày 13-3-2016.























Ánh sáng thế gian

Thứ Tư tuần IV mùa Phục sinh
Lời Chúa: 
Ga 12,44-50
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Ðấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Ðấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Ðấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
                                                                    (Nguồn: Ủy ban Thánh Kinh / HĐGMVN)